Hiệp Hòa là một huyện trung du thuộc tỉnh Bắc Giang, nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Bắc Giang. Huyện lỵ là thị trấn Thắng cách thành phố Bắc Giang 30 km và cách thủ đô Hà Nội 50 km theo đường bộ. Phía Đông Bắc giáp huyện Tân Yên, phía Đông giáp huyện Việt Yên, phía Nam giáp vùng đồng bằng châu thổ Yên Phong của tỉnh Bắc Ninh, phía Tây Nam giáp huyện Sóc Sơn của Hà Nội, phía Tây Bắc giáp các huyện Phổ Yên và Phú Bình của tỉnh Thái Nguyên.1.Hành Chính
Huyện chia thành 26 đơn vị hành chính: thị trấn Thắng, xã Bắc Lý, xã Châu Minh, Đại Thành, Danh Thắng, Đoan Bái, Đông Lỗ, Đồng Tân, Đức Thắng, Hòa Sơn, Hoàng An, Hoàng Lương, Hoàng Thanh, Hoàng Vân, Hợp Thịnh, Hùng Sơn, Hương Lâm, Lương Phong, Mai Đình, Mai Trung, Ngọc Sơn, Quang Minh, Thái Sơn, Thanh Vân, Thường Thắng, xã Xuân Cẩm.
Các cơ quan hành chính của huyện nằm ở thị trấn Thắng. Các đơn vị trực thuộc Ủy ban nhân dân huyện
[1]: Văn phòng Hội đồng nhân dân – Ủy ban nhân dân huyện, Phòng Tài chính – Kế hoạch, Phòng nông nghiệp, Phòng tài nguyên và môi trường, Phòng hạ tầng kinh tế, Phòng công thương, Phòng Văn hóa – Thông tin – Thể thao, Phòng Nội vụ - Lao động - Thương binh xã hội, Phòng giáo dục và đào tạo, Phòng y tế, Phòng tư pháp, Thanh tra huyện, Ủy ban Dân số - Gia đình - Trẻ em, Ban quản lý dự án, Đài truyền thanh huyện, Trung tâm khoa học công nghệ và môi trường, Trạm khuyến nông.
Điều kiện tự nhiên
2. Địa hình và đất đaiHiệp hòa là vùng chuyển tiếp giữa đồi núi và đồng bằng, độ nghiêng theo hướng tây bắc xuống đông nam, đồi núi và gò thấp ở một số xã phía bắc, vùng đồng bằng tập trung ở phía đông nam và giữa huyện. Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 20.110 ha (tức 201 km2), trong đó đất nông nghiệp là 13.479 ha chiếm 67%, đất lâm nghiệp 190,3 ha chiếm 0,9%, đất chưa sử dụng 1.653,2 ha chiếm 8,2%
[1]. Đất đai đa dạng, thích nghi với nhiều loại cây trồng về lương thực, thực phẩm, công nghiệp.
3.Sông ngòiDòng
sông Cầu có chiều dài 50 km ôm lấy phía Tây và phía Nam của Hiệp Hòa có giá trị kinh tế rất lớn, tạo luồng chuyên chở khách và hàng hóa khá thuận tiện. Nước của dòng sông Cầu qua hệ thống mương máng được xây dựng từ thời Pháp tưới cho các cánh đồng trong huyện. Thuyền bè có thể theo sông Cầu lên Thái Nguyên, về
Đáp Cầu,
Phả Lại và ra biển. Sông Cầu bồi đắp phù xa màu mỡ cho các soi bãi ven sông và có trữ lượng cát sỏi hàng triệu mét khối cung cấp cho các công trình xây dựng.
4. Tài nguyên thiên nhiênĐất sét chịu lửa ở Đức Thắng có chất lượng tốt, trắng mịn, có thể làm đồ sứ. Đất sét dùng làm gốm sành ở xã Châu Minh, xã Lương Phong có trữ lượng lớn. Cát sỏi dọc sông Cầu. Vùng đồi núi có đá ong làm vật liệu xây dựng. Qua khảo sát địa chất có than và sắt nhưng chưa đến tuổi khai thác.
Hiệp hòa không còn rừng tự nhiên, rừng trồng rải rác ở các xã phía bắc huyện và được giao cho các hộ, các tổ chức quản lý. Tổng diện tích rừng toàn huyện là 167 ha.
5. Khí hậuHiệp hòa nằm giữa 21013.42' - 21026.16' vĩ tuyến Bắc, 105052.7' - 106002.19' kinh Đông. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm. Nhiệt độ trung bình 23- 240C , lượng mưa trung bình mỗi năm 1650 - 1700 mm, nhiệt lượng bức xạ mặt trời khá lớn khoảng 1765 giờ nắng một năm
[2].
6. Môi trườngNước sông Cầu và hệ thống mương máng của huyện (cũng lấy từ nước sông Cầu) trong vài chục năm gần đây bị ô nhiễm nặng do các nhà máy công nghiệp của Thái Nguyên thải ra. Nhiều dự án cải tạo ô nhiễm sông Cầu đưa ra nhưng vẫn chỉ nằm trên giấy. Một đặc sản nổi tiếng một thời của Hiệp Hòa là Cá Cháy của sông Cầu (như cá Anh Vũ của sông Thao) hiện nay hoàn toàn không còn. Việc sản xuất nông nghiệp dùng nhiều thuốc trừ sâu, phân hóa học, thuốc diệt cỏ nên các động vật sống ở ruộng như ếch, nhái, cá, tôm, cua, rắn, đỉa gần như không còn.
7.Dân sốNăm 2006, dân số của huyện là 300.000 người, số người trong độ tuổi lao động chiếm 44,8 % dân số, tuy nhiên chủ yếu là lao động nông nghiệp. Lao động chưa có chuyên môn kỹ thuật chiếm 95%
8. Kinh tế-xã hộiHiệp Hòa chủ yếu sản xuất lương thực, rau màu, chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng thủy sản. Nhờ hệ thống mương máng người dân có thể trồng hai vụ lúa và một vụ hoa màu trong một năm.Trong những năm gần đây Hiệp Hòa đã chú trọng chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, xây dựng các cụm công nghiệp nhằm thu hút đầu tư, nâng cấp hệ thống chợ nông thôn để phát triển thương mại.
Năm 2008 giá trị sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng trên địa bàn huyện đạt 102 tỷ đồng, tăng 56,5% so với năm 2007. Sản lượng may mặc, bia hơi, khai thác cát sỏi, gạch đều vượt kế hoạch từ 9-10%. Hiện huyện đã quy hoạch được 7 cụm công nghiệp, trong đó có 4 cụm đã được đưa vào sử dụng với tổng diện tích 124,5 ha. Năm 2008 toàn huyện đã thu hút 6 dự án đầu tư lớn với tổng vốn đăng ký hàng trăm tỷ đồng
[3].
Điện lưới: Tính đến năm 2003 điện lưới quốc gia đã đến tất cả các xã, mọi hộ gia đình được sử dụng điện. Toàn huyện hiện có 124 máy biến áp. Điện lưới ở Hiệp Hòa rất hay bị cắt, năm 2008 điện thường bị cắt đúng lúc dân cần điện sinh hoạt từ 17h đến 20h30.
Thông tin: Đường dây điện thoại cố định đã tới tất cả các thôn xóm trong huyện, mỗi gia đình đều có vô tuyến. Điện thoại di động được dùng rất phổ biến trong người dân. Tại trung tâm các xã đều có cơ sở bưu điện và Nhà văn hóa xã.
Nước sinh hoạt: Dân cư chủ yếu dùng nước sinh hoạt từ giếng đào còn một phần từ sông và nước mưa. Nước giếng vùng đồi núi của Hiệp Hòa nổi tiếng trong và mát. Khoảng trên 70% dân cư có nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Khu vực thị trấn được dùng nước máy.
Y tế: Toàn huyện có một bệnh viện lớn, các xã đều có trạm y tế xã, các thôn đều có y tá chăm sóc sức khỏe cho người dân. Ngoài ra còn có các phòng khám tư nhân.
10.Giao thôngĐường bộ của Hiệp hòa khá thuận tiện, có ba tuyến chính: quốc lộ 37 từ Đình Trám qua Thắng và lên Hà Châu (đoạn chạy qua huyện Hiệp Hòa dài 14 km), đường 295 nối bến đò Đông Xuyên qua Thắng lên Cao Thượng (đoạn qua huyện dài 20 km), đường 296 nối Thắng qua cầu Vát tới phố Nỉ (đoạn qua huyện dài 8 km). Ngoài ra còn hai tuyến chỉ ở trong nội huyện: từ Thắng đi Lữ và bến Gầm dài 16 km, từ Thắng đi bến đò Quế Sơn dài 5 km. Năm tuyến đường trên đều đã rải nhựa. Nhược điểm lớn nhất của hệ thống giao thông đường bộ là tại bến phà Đông Xuyên qua sông Cầu trên quốc lộ 295 chưa xây dựng được cầu, ô tô qua phà xếp hàng có khi phải mất vài tiếng.
11.Đặc sảnMít, vải thiều, sắn, lạc, đỗ ở các xã phía Bắc huyện có nhiều đồi núi; trám đen ở xã Hoàng Vân. Ngày tết dân gói bánh chưng tròn và dài. Một số đặc sản nổi tiếng đã vào ca dao và bài hát nhưng hiệp nay không còn: lụa làng Cẩm Xuyên, cá cháy sông Cầu, quýt bộp trồng ở các soi bãi dọc sông Cầu, cải Tiếu của làng Tiếu, trầu không làng Gia Cát, quả sở dùng để ép dầu ăn ở làng Thù Sơn.
12. Du lịch
- Đình Lỗ Hạnh thuộc xã Đông Lỗ: xây dựng năm 1576, là ngôi đình có niên đại sớm nhất Việt Nam, dòng chữ "Đệ nhất Kinh Bắc" ghi ở trong đình ngay từ khi xây dựng. Bộ tranh "Bát tiên" (8 cô tiên) gồm hai bức thuộc loại hình nghệ thuật sơn mài sớm nhất ở Việt Nam. Các bức trạm cưỡi ngựa, đấu võ, hoa sen, rồng, chim, tiên cưỡi rồng là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc có tiếng [4].
- Lăng Dinh Hương là nơi lưu giữ thi hài quận công La Quý Hầu được xây dựng năm 1727.
- Lăng Họ Ngọ (xã Thái Sơn): xây dựng năm 1697, trùng tu 1714. Lăng hình chữ nhật, diện tích 400 m2, các mặt là tường đá ong cao 2.15 m. Hai bên nền khung cửa có trạm nổi hai võ sĩ, rìa cổng có hai con chó đá. Hai bên đường thần đạo là dãy tượng xếp đối xứng gồm voi, võ sĩ dắt ngựa và nghê. Phần mộ ở sau hương án, tường đá bao quanh, khá rộng, có cửa vào và cửa ra.Trước vòm cửa có khắc chữ "Linh Quang Tự", hai bên trạm nổi hai võ sĩ, vào trong là phần một tướng công họ Ngọ, trong phần mộ là nhà bia.
- Lăng Bầu (xã Xuân Cẩm): xây dựng năm 1597, còn khá nguyên vẹn, chia thành hai lớp với hệ thống tường đá ong, cổng đá ong, tượng ngựa và quân hầu bằng đá, tượng voi, võ sĩ bằng đá, bàn đá.
- Trống đồng Bắc Lý (phát hiện tại xã Bắc Lý): giống trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn, ở giữa có ngôi sao 12 cánh, 4 tượng cóc ở xung quanh. Đó là loại trống được xếp vào loại cổ nhất, một di sản đặc sắc và tiêu biểu của nền văn hóa Đông sơn cách đây 2350 năm [5]. Hiện nay trống đồng được lưu giữ tại Nhà bảo tàng tỉnh Bắc Giang.
- Đình Xuân Biều (xã Xuân Cẩm) nơi khởi nghĩa giành chính quyền đầu tiên ở tỉnh vào ngày 12 tháng 3 năm 1945, trước ngày tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945 là 160 ngày.
- Khu di tích Núi Ia (núi Thù Sơn): nhìn xuống sông Cầu, danh lam có tiếng thời Lê, nhà Lê từng dựng hành cung ở đây, trên núi có đền thờ sơn thần.
- Thôn Trâu Lỗ - Mai Đình - Hiệp Hòa, nơi có lăng Cụ Nghè Nguyễn Đình Tuân, đỗ tiến sĩ khoa thi cuối cùng của Nhà Nguyễn năm 1901.
- Tour du lịch sinh thái đi dọc sông Cầu thuộc địa phận Hiệp Hòa 50 km, phần đẹp nhất của sông Cầu. Đi xe máy từ phố Thắng xuống chợ Lữ (có thể dừng lại thăm đình Lỗ Hạnh), tới bến Gầm, theo bờ Bắc sông, ngược sông Cầu đến bến đò Đông Xuyên, lên bến đò Ngọt rồi Ngã Ba Xà (nơi diễn ra hai trận đánh nổi tiếng của Lý Thường Kiệt với quân Tống), tiếp theo là bến đò Ninh Tào, cầu Vát mới xây dựng, bến đò Quế Sơn, bến đò Hà Châu, quay về phố Ca Sơn, kè Gia Tư, Phố Thắng. Tổng chiều dài khoảng 75 km.
- Khu vực Ông Tượng ở huyện lỵ vừa là một di tích lịch sử vừa là một trung tâm thương mại của huyện. Ông Tượng là biểu tượng cho truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Hiệp Hòa được xây dựng vào năm 1970. Cây đa cổ thụ trước cửa Ủy ban huyện đã có hàng trăm năm. Chợ Ông Tượng họp suốt cả ngày. Xung quanh Ông Tượng là hệ thống ngân hàng, bưu điện, các cửa hàng buôn bán tấp nập.
Quá trình hình thành huyện Hiệp Hoà Con người đã có mặt trên đất Hiệp Hòa ngay từ thời kỳ đồ đá, những xóm làng đầu tiên của Hiệp Hòa hình thành dọc hai bờ sông Cầu. Khu di chỉ Đông Lâm thuộc xã Hương Lâm khai quật với diện tích 80 m2 và sâu 1,8 m đã phát hiện nhiều đồ đá, đồ gốm, đồ đồng và cả khuôn đúc rìu đồng bằng đá có niên đại cách ngày nay khoảng 3070 năm (xác định bằng các bon phóng xạ C14). Điều đó chứng tỏ Hiệp Hòa đã có một trung tâm đúc đồng từ rất sớm.
Từ thời kỳ
vua Hùng, Hiệp Hòa thuộc bộ lạc Tây Âu, nằm trong bộ Vũ Ninh. Thời thuộc Hán, Hiệp Hòa nằm trong huyện Long Biên thuộc quận Giao Chỉ. Thời Lý, Hiệp Hòa có tên gọi là Phật Thệ nằm trong phủ Bình Lỗ thuộc lộ Bắc Giang. Thời Trần có tên là Thiện Thệ, thời Lê mới có tên gọi chính thức là Hiệp Hòa thuộc phủ Bắc Hà. Đến năm 1831 Hiệp Hòa nằm trong phủ Thiên Phúc.
Thời Bắc thuộc đơn vị hành chính cơ sở là Hương. Từ đầu thế kỷ thứ 10 đơn vị Giáp thay dần các Hương. Thời Lê (1428-1789) đơn vị hành chính đi vào hoàn chỉnh, năm 1428 đơn vị cấp xã được xác định là cấp cơ sở. Cuối thời Lê và trong cả thời Nguyễn (1802-1883) xuất hiện thêm hai cấp trung gian là Tổng và Phủ. Tổng gồm nhiều xã, là cấp trung gian giữa xã và huyện. Phủ là cấp trung gian giữa huyện và tỉnh (hoặc trấn).
Trấn Kinh Bắc thời Lê gồm 4 phủ: Thuận An, Từ Sơn, Bắc Hà, Lạng Giang.
Phủ Bắc Hà có 180 xã, gồm 4 huyện: Hiệp Hòa, Yên Việt (nay là Việt Yên), Kim Hoa (nay là Kim Anh), Tiên Phúc (nay là Đa Phúc). Vào
thời Lê Hiệp Hòa là một huyện nhỏ, chỉ có 22 xã. Năm 1485 đã có 54 xã. Năm 1821 phủ Bắc Hà đổi thành phủ Thiên Phúc. Năm 1832 hai huyện Yên Việt và Hiệp Hòa lập thành phân phủ Tiên Phúc, năm 1852 phân phủ này không còn.
Thời
nhà Nguyễn, Hiệp Hòa xê xích trong khoảng 50 - 51 xã đặt trong 9 tổng là: Đức Thắng, Hà Nhuyễn (hay Hà Châu), Cẩm Bào, Mai Đình, Hoàng Vân, Gia Định, Quế Trạo (hay Quế Sơn), Tiên Thù, Sơn Giao.
Như vậy cho đến cuối thế kỷ 19 phạm vi của Hiệp Hòa tiến sang cả bên kia sông Cầu. Đầu thế kỷ 20 tổng Hà Nhuyễn được chuyển về huyện Tư Nông của Thái Nguyên (nay là huyện Phú Bình) và tổng Tiên Thù cắt về huyện Phổ Yên. Năm 1902 tổng Sơn Giao giải tán đưa vào tổng Đức Thắng và nhập hai xã Quảng Lâm, Hòa Lâm thành xã Ngọc Thành. Liền sau thời gian đó Hiệp Hòa nhận về hai tổng của Việt Yên: Đông Lỗ, Ngọ Xá. Năm 1920 Hiệp Hòa lập thêm Tổng Ngọc Thành.
So sánh với "Bắc Ninh tỉnh chí": "Hiệp hòa có 9 tổng 50 xã thôn, 232 lính, 2 lính mộ, 2046 nhân đinh, 19160 mẫu ruộng, thuế là 7000 quan tiền một năm cộng 9900 hộc lúa". Dưới thời Pháp thuộc số tổng vẫn như vậy nhưng bớt đi một số đất đai làng xã ở phía bắc, nhưng lại lấy thêm đất đai làng xóm ở phía đông thuộc Yên Thế và phía nam thuộc Việt Yên. Vào khoảng năm 1900 huyện lỵ của Hiệp Hòa vẫn còn nằm ở xã Trung Trật (làng Giật bây giờ), đó là trung tâm của vùng đất cũ. Nhưng sau này huyện lỵ Hiệp Hòa chuyển lên thị trấn Thắng để thành trung tâm của vùng đất đã bớt và thêm.
Đến thời kỳ
Việt Nam dân chủ cộng hòa, các xã trong huyện luôn luôn xảy ra sự tách gộp do dân số phát triển và đổi tên các xã, các làng. Cuối năm 1945, chính quyền bỏ đơn vị hành chính là tổng và tổ chức thành 18 xã, dưới xã là thôn.
Các tiến sĩ thời phong kiếnDưới các triều đại phong kiến, qua 11 khoa thi huyện Hiệp Hòa có 13 người đỗ tiến sỹ.
- Khoa thi năm Giáp tý 1384 dưới triều vua Trần Phế Đế, tổ chức tại Phật Tích (Tiên Du), ông Đoàn Xuân Lôi là người đầu tiên của Hiệp Hòa đỗ tiến sỹ. Ông người xã Ba Lỗ, tổng Mai Đình, Hiệp Hòa. Ông làm trợ giáo Quốc tử giám thời Trần Thuận Tông (1388-1398), cực lực vạch tội Hồ Quý Ly, khinh thường bàn bạc sách thánh hiền, vì thế phải đày đi cận châu, sau được phục chức làm đến Hoàng môn thị lang kiêm Thông phán Ái châu, rồi mất tại quan.
- Khoa thi năm Mậu Dần 1518 dưới triều vua Lê Chiêu Tông: Ngọ Doãn Thọ người xã Ngọ Xá đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân.
- Khoa thi năm Bính Tuất 1526 thời vua Lê Cung Hoàng: Khổng Tư Trực, người Đoan Bái đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân.
- Khoa thi năm Kỷ Sửu 1529 thời vua Mạc Đăng Dung:
- Nguyễn Hoàng (trong Văn Miếu ở Hà Nội ghi là Nguyễn Mao) người xã Đức Thắng đỗ Đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
- Nguyễn Doãn Dịch, sinh 1490 người Hoàng Vân đỗ Đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Khoa thi năm Mậu Tuất 1538 dưới triều Mạc Đăng Doanh:
Hoàng Sầm, sinh năm 1512 tại Thù Sơn, sau chuyển sang Quế Trạo, đỗ Thám Hoa làm đến thượng thư, tước Hoàng Phúc Bá, là con rể Nguyễn Doãn Dịch.
Ngô Trang, người Ninh Định, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân.
Khoa thi năm Đinh Mùi 1548 thời vua Mạc Phúc Nguyên: Nguyễn Thúc Lương người Gia Định đỗ Đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Khoa thi năm Kỷ Mão 1559 thời vua Mạc Phúc Nguyên: Nguyễn Kính, người Quế Trạo sinh 1522, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân, làm đến Hộ bộ thượng thư, tước Hương sơn hầu, đã từng đi sứ.
Khoa thi năm Giáp Tuất 1574 thời vua Mạc Mậu Hợp: Nguyễn Như Tiếp người Phúc Mỹ đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân.
Khoa thi năm Nhâm Thìn 1592 thời Mạc Mậu Hợp: Nguyễn Hữu Đức người Vân Cẩm sinh năm 1569 đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân.
Khoa thi năm Tân Sửu 1721 thời vua Lê Dụ Tông: Ngô Dụng người Vân Trùy sinh năm 1684 đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân, làm đến Bộ tả thị lang.
Khoa thi năm Tân Sửu 1901 thời vua Thành Thái triều Nguyễn: Nguyễn Đình Tuân người làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình sinh năm 1867 đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân, đỗ đầu trong 9 vị tiến sĩ khoa này. Ông nổi tiếng thần đồng từ nhỏ. Ông đã từng giữ các chức: Tri huyện Việt Yên - Bắc Giang, Giáo thụ tỉnh Yên Bái, Đốc học tỉnh Ninh Bình, Đốc học Trường Quy Thức - Hà Nội, Đốc học Hà Đông, Án sát tỉnh Cao Bằng, Án sát tỉnh Bắc Ninh, Án sát tỉnh Thái Nguyên, Tuần phủ Thái Nguyên. Ông là người khai lập xã Tân Cương thuộc tỉnh Thái Nguyên và là vị tổ nghề đối với cây chè Tân Cương nổi tiếng.
Cách mạng tháng TámĐêm ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật nổ súng đánh bại các đội quân Pháp ở thị xã Phủ Lạng Thương. Ngay đêm Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945 Hội nghị mở rộng của Ban thường vụ trung ương Đảng đã họp tại làng Đình Bảng, do Trường Chinh chủ trì, để đánh giá tình hình và đề ra chủ trương mới. Ngày 12 tháng 3 năm 1945 Ban thường vụ trung ương đã ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta".
Sau khi dự Hội nghị mở rộng của Ban thường vụ trung ương,
Lê Thanh Nghị (đặc phái viên của Trung ương, chỉ đạo phong trào chống Nhật ở các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên) và
Nguyễn Trọng Tỉnh (Bí thư Ban cán sự đảng tỉnh Bắc Giang) nhận lệnh của Tổng Bí thư Trường Chinh về ngay Hiệp Hòa để chỉ đạo phong trào. Về tới xã Xuân Biều thuộc tổng Cẩm Bào (đó là đơn vị hành chính thời phong kiến, nay là làng Xuân Biều thuộc xã Xuân Cẩm), thấy chính quyền cũ ở đây hoang mang dao động đến cao độ, nhân dân sôi sục khí thế đấu tranh, hai người đã quyết định phát động quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền.
Chiều ngày 12 tháng 3 năm 1945 Lê Thanh Nghị, Nguyễn Trọng Tỉnh, Hà Thị Quế, Lê Thị Thuận, Phạm Yên... họp tại đình Xuân Biều bàn kế hoạch khởi nghĩa. Thực hiện kế hoạch khởi nghĩa cướp chính quyền, tự vệ bí mật tiếp cận lý trưởng để tước bằng triện, giấy tờ. Lấy được bằng triện, ngay lập tức tối hôm đó, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại đình Xuân Biều, có hơn 70 tự vệ và 300 quần chúng tham gia. Nguyễn Trọng Tỉnh tuyên bố thủ tiêu chính quyền cũ, thành lập chính quyền cách mạng, thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng xã. Đây là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền cấp xã thắng lợi đầu tiên trên phạm vi cả nước nhờ vận dụng chỉ thị ngày 12 tháng 3 năm 1945 của Ban thường vụ trung ương Đảng về khởi nghĩa từng phần, tạo điều kiện tiến tới tổng khởi nghĩa.
Ngày 13 tháng 3 năm 1945 Ủy ban dân tộc giải phóng làng Trung Định được thành lập, xóa bỏ hoàn toàn chính quyền cũ ở đây, thành lập chính quyền mới. Từ đêm ngày 12 tháng 3 năm 1945 và ngày 13 tháng 3 năm 1945 lính giữ đồn điền Vát vô cùng hoảng sợ trước phong trào cách mạng của quần chúng đã bỏ chạy, chủ đồn điền Vát cũng bỏ chạy.
Ngày 13 tháng 3 năm 1945 Ủy ban dân tộc giải phóng Xuân Biều, Trương Định đã huy động tự vệ và quần chúng đông tới 3000 người rầm rộ kéo đến bao vây đồn điền Vát, lấy toàn bộ số thóc và trâu bò trong đồn điền.
Ngày 15 tháng 3 năm 1945 một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ở chợ Vân, Lê Thanh Nghị và Nguyễn Trọng Tỉnh lên diễn thuyết hô hào quần chúng phá kho thóc của Nhật, chống Nhật thu thuế, thành lập chính quyền cách mạng.
Ngày 16 tháng 3 năm 1945 một cuộc biểu tình thị uy gồm trên 1000 người của tự vệ và quần chúng hai tổng Hoàng Vân, Ngọc Thành và khu ấp Ba Huyện được tổ chức. Đoàn biểu tình đi qua đồn Trị Cụ đến thẳng đồn điền Cọ phá kho lấy thóc.
Từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 20 tháng 4 năm 1945 Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ lần thứ nhất họp tại nhà ông Ngô Văn Đông làng Liễu Ngạn, tổng Hoàng Vân. Dự hội nghị có
Trường Chinh (Tổng bí thư Đảng chủ trì),
Võ Nguyên Giáp,
Văn Tiến Dũng, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị ... Hội nghị đặt nhiệm vụ quân sự vào vị trí đặc biệt quan trọng, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, mở trường cấp tốc đào tạo cán bộ quân sự chính trị, xây dựng 7 chiến khu lớn trong cả nước (Hiệp Hòa nằm trong chiến khu II).
Được sự giúp đỡ của Trung ương, trực tiếp là Trường Chinh, Lê Thanh Nghị, ngày 8 tháng 5 năm 1945 một cuộc hội nghị đại biểu nhân dân các xã thuộc huyện Hiệp Hòa được triệu tập tại đình làng Quế Sơn (tổng Quế Trạo) bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng huyện và ra nghị quyết tạm chia ruộng đất của hai đồn điền Cọ và Vát cho tá điền và nông dân nghèo. Như vậy Hiệp Hòa là huyện đầu tiên trong toàn tỉnh thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng huyện và có Nghị quyết tạm chia ruộng đất.
Trước áp lực của cách mạng, tri huyện Thái Vĩnh Thịnh hết sức hoảng sợ, đã nhắn tin xin được gặp cán bộ Việt Minh. Việt Minh cử người đến liên lạc với tri huyện và bố trí cho tri huyện gặp Nguyễn Trọng Tỉnh. Tri huyện xin quy thuận Việt Minh và nhận làm nội ứng khi quân cách mạng tấn công huyện lỵ. Tối ngày 1 tháng 6 năm 1945 một đơn vị vũ trang của tỉnh cùng với tự vệ Hoàng Vân do Lương Văn Đài và Nguyễn Trọng Tỉnh chỉ huy, bố trí lực lượng, triển khai kế hoạch chiến đấu. Bốn trung đội do Lương Văn Đài trực tiếp chỉ huy đã tiến thẳng vào cổng huyện do tri huyện mở sẵn đón. Toàn bộ lính trong huyện nộp vũ khí đầu hàng. Việt Minh tập trung tri huyện, nha lại, binh lính để nghe giải thích chính sách của Việt Minh, sau đó đốt toàn bộ sổ sách tài liệu của chính quyền cũ, thu 30 súng. Riêng lục sự Liễn bị xử tử hình tại chỗ vì làm tay sai đắc lực cho Nhật, gây nhiều tội ác với nhân dân; đồng thời san bằng huyện đường, chấm dứt vĩnh viễn chính quyền của chế độ phong kiến thực dân và phát xít ở huyện Hiệp Hòa. Như vậy Hiệp Hòa là huyện giành chính quyền đầu tiên trong hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, trước ngày tổng khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19 tháng 8 năm 1945 là 79 ngày.
Thời kỳ kháng chiến chống PhápTrong kháng chiến Hiệp Hòa là vùng tự do (Việt Minh kiểm soát) nhưng giáp giới các vùng tề (do Pháp kiểm soát). Pháp xây dựng một loạt các vị trí, đồn bốt ở Núi Con Voi, Mỏ Thổ, Núi Nhẫm, Ngã Ba Xà, Chờ, Yên Phụ, Núi Đôi để cô lập Hiệp Hòa. Hiệp Hòa chịu rất nhiều cuộc càn quét và ném bom của Pháp, sau đây là những trận lớn (không kể các trận Pháp huy động từ 100 đến 500 quân):
- Sáng ngày 9 tháng 5 năm 1945 giữa lúc chợ Thắng đông người, ba máy bay của Pháp bất ngờ bay tới, chúc đầu ném hai quả bom xuống giữa chợ, một quả nổ dưới đất, một quả nổ trên cành cây si, sau đó các máy bay quay lại tiếp tục bắn phá. Hàng trăm người bị chết và nhiều người bị thương, máu nhuộm đỏ nước ao ở cổng chợ.
- Ngày 11 tháng 1 năm 1950 lực lượng Pháp gồm 400 lính Pháp và 400 lính người Việt từ vị trí Mỏ Thổ và Con Voi tiến lên càn quét các xã Lương Phong, Đoan Bái, Đức Thắng, Danh Thắng, đốt phá Thị trấn Thắng và huyện lỵ, bắt dân tản cư về lập tề.
- Ngày 20 tháng 3 năm 1950 Pháp huy động một lực lượng lớn gồm 5000 quân từ các vị trí Con Voi, Mỏ Thổ, Đáp Cầu, Chờ, Yên Phụ, Núi Đôi, có máy bay và tàu chiến yểm hộ, mở một trận tổng càn quét lên Hiệp Hòa nhằm phá hậu phương kháng chiến, chụp bắt các cơ quan tỉnh Bắc Ninh. Pháp bắn chết 14 người, đốt cháy 267 nóc nhà, cướp đi nhiều thóc và trâu bò.
http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Hi%E1%BB%87p_H%C3%B2a_(huy%E1%BB%87n)&action=history